IMG_2820

Cốt lõi của trí tuệ Bát Nhã

Nội dung Bát Nhã Tâm Kinh

Bát Nhã Tâm Kinh là tinh hoa của tư tưởng Phật giáo Đại thừa và là giáo pháp nền tảng của Phật giáo Kim cương thừa. Theo trí tuệ Bát nhã, cuộc đời là như huyễn, không thực bởi mọi thứ thay đổi vô thường, đến và đi, tùy thuộc vào nhân duyên. Nói cách khác, cuộc đời là Không. “Không” thường dễ bị hiểu nhầm theo hướng tiêu cực là triệt tiêu. Bát nhã đưa ta thoát khỏi quan niệm “Không” cực đoan này để trở về với Trung đạo. Trung đạo vẫn mang ý tưởng rằng “đời là Không”, tuy nhiên “Không” ở đây chẳng khác vơi “Có”, bởi vì, “Không mà là Có, Có rốt ráo thực chất lại là Không”. Như vậy, Trung đạo không phải là sự triệt tiêu, tiêu cực mà là cái nhìn rất sâu sắc, thực tế và tích cực về cuộc đời.

Bát Nhã Tâm Kinh thể hiện con đường Trung đạo, trong khi trình bày nhanh chóng tất cả những giáo lý Phật giáo truyền thống, từ Nguyên thủy đến Đại thừa. Học Bát Nhã Tâm Kinh chính là học toàn bộ tinh túy Phật pháp.

Cốt lõi của Trí tuệ Bát nhã

“Bồ tát Quán Tự Tại thực hành sâu xa pháp Bát nhã Ba la mật đa. Ngài soi thấy năm uẩn đều không, độ thoát hết thảy khổ ách.

Này Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc. Sắc tức là Không, Không tức là Sac. Thụ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế”.

Hai đoạn trên là cốt lõi của Bát nhã. Tất cả những câu sau đó là triển khai rộng hơn từ phần cốt lõi này.

Ở đây, Bồ tát là viết tắt của “Bồ đề tát đỏa” (tiếng Phạn la Bodhisattva), có nghĩa là “bậc Giác ngộ”. Tu Bồ tát đạo là con đường Đại thừa dẫn đến giác ngộ. Con đường này được gọi là Lục độ Ba la mật, bao gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Khởi đầu con đường tu Bồ tát đạo này, điều trước tiên hành giả phải thực hiện là phát tâm Bồ đề – tâm nguyện đạt đến giác ngộ nhằm giúp chúng sinh cùng đạt giác ngộ – đó là lời thệ nguyện thiêng liêng, đầy lòng vị tha của hành giả đã phát Bồ đề tâm.

Quán Tự Tại là danh hiệu khác của Đức Quan Âm. Quán Tự Tại có nghĩa là an trụ trong chân tâm, cho nên đối với các pháp Ngài đều tự tại. Còn Quan Âm hay Quan Thế Âm là quán sát, lắng nghe âm thanh của thế giới để cứu khổ độ nạn. Một tên Phạn với hai cách dịch nghĩa hơi khác nhau: Khi nói về thể tính trí tuệ thì đó là Quán Tự Tại; khi nói đến lòng Từ bi lắng nghe tiếng kêu cứu khổ của chúng sinh trong luân hồi đau khổ thì đó là Quan Thế Âm.

Ngoài việc là danh hiệu của Đức Quan Âm, tên gọi “Bồ tát Quán Tự Tại” cũng được dùng để chỉ bất cứ ai đã đạt giác ngộ, có thể quán sát chân thực, không sai lệch, về bản thân và vạn pháp. “Ngũ uẩn” gồm sắc, thụ, tưởng, hành và thức. Năm uẩn (hay năm tổ hợp) này kết hợp với nhau tạo nên chúng sinh. Sắc là phần vật chất cua cơ thể chúng ta. Thụ, tưởng, hành, thức (cảm thụ, suy nghĩ, sự vận hành vi tế của tâm thức, và thức) tạo nên phần tinh thần.

“Bồ tát Quán Tự Tại soi thấy năm uẩn đều không. Sắc tức là Không, Không tức là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”.

Hai câu đầu của Bát Nhã Tâm Kinh có nghĩa là: “Khi bậc Giác ngộ tu tập Trí tuệ Bát nhã thâm sâu, quán sát được bản chất thực tại, bậc đó nhận ra chính mình là Không, vì thế mà vượt qua mọi khổ đau”. Ta cần tránh cách hiểu sai lệch rằng tính không là một thực tại tuyệt đối hay sự thật, mà phải hiểu đó là tự tính của mọi sự vật hiện tượng. Trong Kinh dạy: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”. Những câu này không bàn về Đại Không nào đó tồn tại riêng rẽ mà đang nói về tự tính Không của vạn pháp, trong câu này nói về tự tính Không của Sắc.

Câu “Sắc tức là Không” gợi ý rằng tính không của Sắc không là gì khác ngoài tự tính tuyệt đối của Sắc. Sắc không hề có tự tính cố hữu hay sự tồn tại độc lập; do đó bản chất của Sắc là Không. Tự tính Không này cũng không độc lập với Sắc mà là một thuộc tính của Sắc. Ta phải hiểu Sắc và Không là nhất như, bất khả phân, không phải hai thực tại độc lập với nhau. Hãy cùng đi sâu vào câu “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. Vế đầu tiên, “Sắc tức la Không”, có nghĩa là cái mà ta gọi là Sắc được tạo nên từ sự hợp thành của nhiều nhân và duyên chứ không tự hình thành. Sắc là một pháp giả hợp, được tạo thành từ nhiều nhân duyên. Bởi chỉ được hình thành và tồn tại nhờ nhân duyên hợp thành, Sắc không có thực tại vững chắc nào, và do đó trong Kinh mới dạy Sắc là Không.
Tiếp theo là câu “Không tức là Sắc”. Vì Sắc không tự tồn tại nên không thể tách rời khỏi các pháp khác. Bơi tính chất thay đổi, phụ thuộc vào các điều kiện khác này, Sắc không bất biến, mà thay vào đó có thể thay đổi và chịu ảnh hưởng của nhân duyên. Nói theo cách khác, bởi Sắc được tạo thành từ các nhân duyên hòa hợp và không có sự tồn tại độc lập, bất biến, nên nó có thể tương tác với các Sắc và nhân duyên khác. Đây là một thực tại phức tạp và có sự tương tác với nhau. Bởi Sắc không tự tồn tại độc lập, ta có thể nói Không tạo ra Sắc. Vậy vế “Không tức là Sắc” có thể hiểu theo nghĩa tính không hóa hiện ra Sắc, Sắc là sự hiện bày của tính không, Sắc bắt nguồn từ tính không.

Để hiểu về câu này, chúng ta cần suy ngẫm về luận giải của Đức Long Thọ rằng vạn pháp tồn tại ở cấp độ tương đối nhưng không hề có sự tồn tại độc lập, bất biến ở cấp độ tuyệt đối. Tính không hàm ý nói đến duyên khởi. Quả phụ thuộc vào nhân, nhưng ở góc độ duyên khởi, chúng ta cũng có thể nói rằng nhân phụ thuộc vào quả, và chủ thể thực hiện hành động cũng như đối tượng của hành động cùng phụ thuộc lẫn nhau

Vì vạn pháp phụ thuộc vào các nhân duyên khác, nên không có sự tồn tại độc lập, nhưng vạn pháp không phải là không tồn tại. Vừa không phải là không tồn tại song lại không có sự tồn tại độc lập nên vạn pháp, tức là mọi sự vật hiện tượng trong thế gian, chỉ tồn tại do tâm gán ghép danh ngôn khái niệm. Đây là bước khởi đầu quan trọng trong thực hành Phật pháp. Những người chưa tu tập Phật pháp thường nghĩ rằng chúng ta tồn tại một cách chắc thực và vĩnh viễn. Thái độ cực đoan này được gọi là chấp có (bám chấp vào cái tôi và các sự vật hiện tượng, cho rằng chúng là có thật).

Phật pháp dạy rằng sự hiện hữu của chúng ta là không thực – sự hiện hữu đó vô thường và hư huyễn, vì vậy nó là Không. Không nhiều khi được hiểu la ngược với Có, hay phủ định Có. Có là Sắc, tức là mọi hiện hữu, mọi sự vật hiện tượng. Một số người hiểu rằng Không có nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng đều không tồn tại. Cách hiểu như vậy là quan kiến cực đoan chấp không, tức là bám chấp vào cái Không.

Xá Lợi Tử là một đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Xá Lợi Tử được nhắc đến hai lần, mỗi lần nêu biểu cho một bước phát triển quan trọng về ý nghĩa của Không trong lịch sử Phật giáo.

Xá Lợi Tử là một đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Xá Lợi Tử được nhắc đến hai lần, mỗi lần nêu biểu cho một bước phát triển quan trọng về ý nghĩa của “Không” trong lịch sử Phật giáo.

Con đường Trung đạo

Lần này, Không được đưa từ cực đoan triệt tiêu, đối nghịch với Có trở lại con đường Trung đạo, như được thấy trong những câu dưới đây:

“Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc.

Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”

Sắc gồm hai nghĩa: Nội sắc và Ngoại sắc. Nội sắc chỉ phần xác thân con người, là một trong năm uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) tạo nên chúng ta. Ngoại sắc là một trong sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) tạo nên vũ trụ.

Toàn bộ tư tưởng của Bát Nhã Tâm Kinh nói lên sự cân bằng giữa Sắc và Không. Ở đây, chữ “Sắc” mang hai ý nghĩa:

– Thứ nhất, Sắc được dùng để đối nghĩa với Không;

– Thứ hai, Sắc nêu biểu từ tính không hình thành nên cả vũ trụ.

Trong câu đầu, bản thể của con người là Không (Ngũ uẩn giai không). Tuy nhiên, câu thứ hai cho thấy chắc chắn rằng Không chẳng mang nghĩa là “không có gì” hay “không hiện hữu”. Bởi vì, Không chẳng khác Sắc, chẳng khác với màu sắc, hình dạng, tướng phần của vạn pháp, những gì chúng ta có thể quan sát bằng mắt. Và ngược lại, Sắc chẳng khác Không.

Nói cách khác, Không và Sắc, hai khái niệm tưởng chừng như trái ngược, thực sự lại nhất như. Sự lặp lại bằng cách nói phủ định: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”, chính là để khẳng định rằng Sắc và Không chỉ là một, là nhất như. Ở những câu tiếp theo, “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”, khẳng định lại lần nữa, lần này bằng cách nói khẳng định, rằng Sắc và Không chỉ là một, là nhất như.

Chẳng những Sắc (biểu tượng cho phần xác thân vật lý của chúng ta) là Không và ngược lại, mà những yếu tố tinh thần của chúng ta cũng vận hành theo cách tương tự – thụ, tưởng, hành, thức và Không là nhất như: thụ, tưởng, hành, thức là Không và Không là thụ, tưởng, hành, thức. Đó là ý nghĩa đoạn tiếp theo của Bát Nhã Tâm Kinh: “Thụ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế”.

Tại sao Sắc và Không lại là nhất như? Tại sao hai phạm trù tưởng đối nghịch nhau thực ra lại bất nhị? Chúng ta cần đi vào Tam Pháp Ấn để tìm câu trả lời. Tam Pháp Ấn là ba dấu ấn để xác nhận lời giảng chân chính của Đức Phật, bao gồm: Vô thường, Vô ngã và Niết bàn. Nếu lời giảng về Phật pháp thiếu một trong ba dấu ấn này thì đó không phải là một lời giảng Phật pháp chân thực.

Quán chiếu Năm uẩn là Không

Vậy tại sao khi Bồ tát Quán Tự Tại quán chiếu Năm uẩn là Không, Ngài liền vượt qua mọi khổ ách? Bởi vì khi nhận ra rằng bản ngã của mình là tính không, Ngài không còn bất kỳ chấp luyến nào nữa. Trong cuộc đời, ta có thể chấp vào hàng triệu thứ xung quanh mình – của cải, sắc đẹp, tình yêu, quyền lực, tư tưởng… Nhưng khi phân tích đến tận cùng, ta sẽ thấy rằng lý do ta cố nắm giữ mọi thứ là bởi chấp vào bản ngã của chính mình. Vì cố chấp vào bản ngã nên ta muốn mọi thứ cho mình, trở thành sở hữu của mình. Nếu không chấp vào bản ngã – vì nhận ra bản ngã đó chỉ là duyên hợp như huyễn, là tính không – ta có thể tự động buông bỏ sự bám chấp vào “cái tôi” cũng như không còn dính mắc vào tất cả mọi thứ khác, nhờ đó mà siêu việt khổ đau, đạt giải thoát, giác ngộ. Đó là ý nghĩa của việc quán chiếu Không dẫn đến không còn bám chấp, từ đó dẫn đến Niết bàn.

Nhưng, liệu triết lý Sắc – Không có liên quan gì đến cuộc sống của chúng ta? Triết lý Sắc – Không hàm chứa nhiều ý nghĩa quan trọng về cuộc sống.

– Thứ nhất, triết lý Sắc – Không khẳng định cuộc sống. Ngôn ngữ liên tục phủ định của Bát Nhã Tâm Kinh – với những từ như “trống”, “rỗng” và “không” – khiến nhiều người hiểu lầm rằng Bát nhã phủ nhận mọi thứ, nhưng nếu đọc kỹ Bát Nhã Tâm Kinh, ta sẽ thấy rằng Bát nhã không phủ nhận bất cứ điều gì. Thực ra, Bát nhã xác nhận mọi thứ trong cuộc sống. “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc. Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. Đó là lời khẳng định mạnh mẽ và rõ ràng về cả Sắc và Không, hai thái cực hiển nhiên của đời sống. Vì thế, Bát nhã xác nhận mạnh mẽ về cuộc sống và mọi sắc thái của cuộc sống.

– Thứ hai, triết lý Sắc – Không giúp chúng ta có thái độ sống tự do, tự tại: Bát nhã giúp ta tránh khỏi chấp luyến, vướng mắc. Ta không chấp vào Sắc mà phủ nhận Không, bởi vì Không là Sắc. Ta không chấp vào Không mà phủ nhận Sắc, bởi vì Sắc là Không.

Bởi Bát nhã có nghĩa là chẳng chấp Sắc mà cũng chẳng chấp Không, ta gọi Bát nhã là Trung đạo. Trung đạo của Bát nhã không có nghĩa là bám chấp vào cái ở giữa. Tất cả mọi bám chấp, gồm cả sự chấp trước như thế, cũng đều gây khổ đau. Với quan kiến Trung đạo của Bát nhã, chúng ta có thể vẫn buôn bán mà không bám chấp vào tiền bạc, đọc mà không bám chấp vào sách hay văn tự, ăn mà không bám chấp vào thực phẩm, lái xe mà không bám chấp vào xe, có địa vị mà không bám chấp vào quyền lực. Mỗi ngày trong cuộc sống, chúng ta phải lựa chọn, phải đưa ra những quyết định, thường xuyên đứng trên một quan điểm nào đó. Tuy nhiên, chúng ta không nên chấp trước vào những điều này để tâm được thanh tịnh, giải thoát.

Trung đạo của Bát nhã khác với thờ ơ hay lãnh đạm. Người sống với tinh thần Bát nhã không phải là người thờ ơ lãnh đạm, không quan tâm gì đến cuộc đời. Tuy nhiên, họ không chấp vào “lẽ phải” của mình đến mức phải loại trừ tất cả những quan điểm khác biệt.

ĐỨC PHÁP VƯƠNG KHAI THỊ: CỐT LÕI CỦA TRÍ TUỆ BÁT NHÃ

(Trích từ ấn phẩm Đức Phật Quan Âm – Thần lực Đại bi gia trì, Drukpa Việt Nam biên soạn)

Nguồn: drukpavietnam.org