12122811_1190130751003708_4172631129054560735_n-800x445

Thái độ đúng đắn của một hành giả Kim Cương Thừa

Truyền thống Kim Cương thừa (Vajrayana) là một con đường nhanh chóng để đạt được giải thoátKim Cương (vajra) tượng trưng cho năng lực có nghĩa là Kim Cương thừa rất hữu hiệu. Nhiều người có nhận thức sai lầm về Kim Cương thừa, cho rằng nó không khác gì việc áp dụng lời nguyền thần bí hay năng lực tâm linh. Trong thực tế, “YANA” là một cuộc tìm kiếm sự giải thoát của tâm và sự thực hành huyền thuật và năng lực tâm linh sẽ không đưa ta tới sự giải thoát. Nếu chúng ta thực hành Kim Cương thừa với quan niệm sai lầm này thì nhất định là ta tích tập nghiệp rất xấu. Quả thực trong Kim Cương thừa có rất nhiều tantra trì tụng thần chú, nhưng chắc chắn là những tantra này không có tính chấthuyền bí hay tâm linhChúng ta phải hiểu rõ tính chất độc nhất vô nhị này của truyền thống Kim Cương thừa.

Tiêu chuẩn đầu tiên trong việc thực hành Kim Cương thừa là phải bắt đầu với Tiểu thừa (Hinayana). Tiểu thừa bao gồm những giáo lý căn bản của Đức Phật và những giáo lý này không được nhắc lại trong Đại thừa (Mahayana) hay Kim Cương thừa. Do đó, những hành giả Đại thừa và Kim Cương thừaphải bắt đầu từ những giáo lý căn bản của Tiểu thừa.

Những giáo lý căn bản của Đức Phật là gì?

Những giáo lý căn bản nhất là sự thiền định và vinaya hay giới luật và những hành giả của Đại thừahay Kim Cương thừa phải học tập những giáo lý này qua Tiểu thừa.

Thực hành thiền định có hai cấp độ và cấp độ đầu tiên là thiền định “samatha.” Nhờ tu tập nó tâm ta được tĩnh lặng, an bình và kiên cố. Trong các giáo lý Tiểu thừaĐức Phật chú trọng rất nhiều vào sự thực hành và những kỹ thuật của thiền định samatha. Những hành giả Đại thừa hay Kim Cương thừanên đạt được nền tảng như thế.

Vinaya là giới luật bản thânTóm lại, cần tự chế không làm mười ác hạnh. Mười ác hạnh này bao gồmmọi ác nghiệp phát sinh từ việc chấp ngã. Đối nghịch với mười ác hạnh và mười thiện hạnh. Những thiện hạnh này là gốc rễ của những công đức của riêng ta. Tôi không thảo luận chi tiết về chúng ở đây và những ai không hiểu rõ về mười thiện hạnh có thể tham khảo Kinh điển.

Đồng thời ta phải hiểu rằng thân người khó được và rất quý báu. Thân người quý báu này là một khí cụ để đạt được giải thoát nhưng nó rất dễ bị tổn thương và chỉ tồn tại một thời gian ngắn ngủi. Trong thế giới này có rất nhiều mối hiểm nguy có thể dễ dàng tiêu diệt những thân người như thế. Chúng ta không biết chút gì về nghiệp lực của ta và chúng ta còn sống bao lâu nữa.

Lý do của việc tái sinh trong luân hồi sinh tử là sự chấp ngã.

Mọi cảm xúc phát khởi từ sự chấp ngã sẽ không tốt lành và với sự chấp ngã như thế, không có cách nào để thực hành các thiện hạnh. Tất cả những hoạt động thuộc về nghiệp sẽ không đạo đức và mỗi một trong những nguyên nhân ác nghiệp này sẽ đưa tới sự tái sinh trong những cõi thấp trong mười ngàn đời. Nếu bạn có thể suy niệm về sự kiện này thì bạn sẽ có thể nhận ra rằng thân người thì quý báubiết bao. Trong vô số lần tái sinh, cơ may để được tái sinh trong cõi người là một phần mười triệu. Vì thế, giờ đây bạn đang sở hữu thân người quý báu, xin đừng phí phạm nó. Bạn phải sử dụng thân người quý báu này để thực hànhTrừ phi bạn đã giác ngộ nếu không thì không có cách nào để hoàn toànđược giải thoát.

Điều được nói ở trên là yêu cầu đầu tiên của thực hành căn bảnKế tiếp, để là một hành giả Kim Cương thừa thì yêu cầu thứ hai là phải được trang bị lòng bi mẫn vĩ đại. Điều đó có nghĩa là để thực hành Kim Cương thừa, ta phải là một Bồ TátBồ Tát có nghĩa là một người có Bồ Đề tâm và lòng bi mẫn.

Bồ Đề tâm là hạt giống của Phật Quả và một Bồ Tát phải có Bồ Đề tâm và Lòng Bi mẫn đối với tất cả chúng sinh mà không có chút vị kỷ nào.

Một khi bạn đã phát triển Bồ Đề tâm, bất kỳ công đức nào được thực hiện cũng sẽ được chuyển hóathật vô hạn và có thể đưa tới sự giải thoát và Phật QuảTrái lại, nếu bạn không phát triển Bồ Đề tâm, mọi công đức đã thực hiện sẽ bị giới hạn. Chỉ có những công đức được thực hiện với Bồ Đề tâm mới có thể bảo đảm sự Giác ngộ và Phật Quả.

Ngoài việc thực hành con đường Bồ Tát, những hành giả Kim cương thừa cũng sử dụng một vài phương tiện thiện xảo trong sự thực hành của họ, chẳng hạn như sự quán tưởng các Bổn Tôn, v.v..

Trong truyền thống Kim Cương thừa, Kalacakra được nói là thực hành Kim Cương thừa cao cấp nhất. Kalacakra có một ý nghĩa sâu xa và những tính chất của Bổn Tôn Kalacakra cũng rất đặc biệt. Ngài có nhiều mặt, nhiều tay chân và những đặc tính này tượng trưng cho nhiều ý nghĩa của thực hành. Một ví dụ khác là Đức Chenrezig (Quán Thế Âm) bốn tay có thân sắc trắng tượng trưng cho sự thuần tịnh và lòng bi mẫnhoa sen và chuỗi pha lê cầm trong tay tượng trưng cho lòng bi mẫn và trí tuệ, và những vật trang sức được đeo trên thân tượng trưng cho những phẩm tính khác nhau của sự chứng ngộ.

Bổn Tôn hay yidam có thể hiển lộ trong Báo Thân hay Hóa Thân. Những sự hiển lộ này xuất phát từ giác tánh nguyên sơ, là Pháp Thân. Chẳng hạn như Đức Chenrezig được nhận thức là sự hiển lộ trong một Báo Thân hay Hóa Thân thì tùy thuộc vào mức độ thực hành và năng lực của hành giả.

Khi bạn đang thực hành yidam, đừng nghĩ rằng bạn đang mời thỉnh Bổn Tôn tới với bạn. Ví dụ như trong thực hành Chenrezig, không phải là Đức Chenrezig sẽ thực sự xuất hiện trước mặt bạn. Một vài người cho rằng thực hành Bổn Tôn là để mời thỉnh Bổn Tôn đi tới hay đi vào thân thể của họ. Đây là những quan niệm sai lầm. Hơn nữa, để quét sạch sự chấp ngãchúng ta phải chú tâm vào điều khác bên cạnh tam độc, đó là ta phải quán tưởng một chủng tự. Ví dụ như chủng tự “HRIH” chứa đựng sự ban phước của thiền định Chenrezig, nó có thể biến thành hình ảnh Đức Chenrezig. Giờ đây với thân thể bình thường của ta chúng ta quán tưởng chủng tự này và nhờ nó, chúng ta biến thành Đức Chenrezig. Thực hành này sẽ quét sạch những niệm tưởng và những khuynh hướng quen thuộc của ta. Từ điều này ta sẽ hiểu rằng thực hành Bổn Tôn mang lại rất nhiều lợi lạc.

– Trước tiên, nó bao gồm thiền định samatha (tĩnh lặng) bởi bạn phải thực hành rất nhiều sự quántưởng.

– Thứ hai, thực hành yidam có thể quét sạch nghiệp xấu và những khuynh hướng quen thuộc.

– Thứ ba, ta có thể đạt được trạng thái Pháp Thân hay Báo Thân.

Tâm chú Om Mani Pad Me Hung của Đức Chenrezig

Thần chú này xuất hiện từ thiền định của Đức Chenrezig và việc trì tụng nó có thể giúp chúng ta tăng trưởng sự tập trung và giải trừ nghiệp xấu của ngữ. Cũng thếsự quán tưởng Bổn Tôn thì không ở trong một thân tướng thô nặng. Bản tánh của ngài là tánh KhôngPháp Thân và sự hiển lộ của ngài là Báo Thân.

 Sự quán tưởng chủng tực “HRIH” là để quét sạch những khuynh hướng quen thuộc của ta.

Thông thường, khi chúng sinh được tái sinh trong cõi ngườitrước tiên tâm thức sẽ bám vào một thân thể và sau đó đi vào thai tạng. Dĩ nhiên là với kỹ thuật hiện tại người ta không thể khám phá ý niệm tâm thức đi vào thai tạng. Điều chúng ta có thể nhận ra chỉ là tiến trình tiệm tiến của sự phát triển. Ý niệmtâm thức được tạo nên bởi sự tham luyến và dính mắc và những điều này rất khó quét sạch. Ta cần có sự chuyển hóa tự nhiên của tâm. Vì thế, ta quán tưởng tâm ta và tan biến thành “HRIH”, nó sẽ chuyển hóa các thân tướng chúng sinh thành những thân tướng của Đức Chenrezig.

Ý niệm yidam tan thành ánh sáng đi vào tánh Không có thể chuyển hóa khuynh hướng quen thuộc của sự chết. Thông thường khi chúng sinh chết, họ phải đi vào giai đoạn bardo. Nhờ sự thực hành và quán tưởng này ta có thể quét sạch khuynh hướng ấy và đi vào trạng thái Pháp Thân.

Đây là những thực hành của Kim Cương thừa nhưng điều tối quan trọng là chúng đòi hỏi sự thiền định như một căn bản. Những phương pháp thiền định hầu như được tìm thấy trong những Kinh điển bí truyền. Nếu bạn đang thực hành Kim Cương thừa và thiếu căn bản này thì dù bạn thực hành Pháp môn nào nó cũng sẽ dẫn tới sai lầm. Bạn sẽ không thể quán tưởng trạng thái trống không của một yidam và bạn sẽ quán tưởng thân tướng yidam như một thân thô nặng. Khi bạn tụng thần chú, bạn sẽ phủ nhận cốt tủy của nó. Vì thế, không có căn bản của những giáo lý bí truyền thì mọi thực hành làm việc không có mục đích.

Để là một hành giả Kim Cương thừachúng ta cần có một sự hiểu biết thấu đáo thực hành của nó và cũng hoàn thành những giới nguyện Bồ TátKim Cương thừa không nên được giảng dạy công khai cho những người không thọ Bồ Tát giới bởi đó là những giáo lý của các Bồ Tát. Do đó chỉ có những Bồ Tátlà phù hợp với việc thực hànhTuy nhiênthực hành của Đức Chenrezig bao gồm lòng đại bi một cách phi thường và có thể được giảng dạy công khai./.

H.H. Kunzig Shamarpa Rinpoche

Nguyên tác: “The Correct Attitude of a Vajrayana Practionner”
By H.H. Kunzig Shamarpa Rinpoche
http://www.kagyu-asia.com/t_correct.html

Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên


The Correct Attitude of a Vajrayana Practitioner

by HH Kunzig Shamarpa Rinpoche

The Vajrayana tradition is a quick path to liberation. Vajra symbolizes power which means Vajrayana is very effective. Many people have the wrong perception towards Vajrayana, assuming that it is no difference from the application of magical curse or psychic power. In actual fact, “YANA” is a quest for liberation of the mind and practicing magic and psychic power will not lead us to liberation. If we practice Vajrayana with this wrong view, we are sure to accumulate very bad karma. It is true that in Vajrayana there are a lot of mantra-reciting tantras, but these definitely are not magic or psychic. We must understand this uniqueness of the Vajrayana tradition.

The first criterion in practicing Vajrayana is to start with Hinayana. Hinayana contains the basic teachings of the Buddha and these teachings are not repeated in the Mahayana or Vajrayana. Therefore, the practitioners of the Mahayana of Vajrayana must begin from the basic teachings of Hinayana.

What are Buddha’s basic teachings?

The most important ones are meditation and vinaya or discipline and practitioners of the Mahayana or Vajrayana must learn these through Hinayana.

The practice of meditation has two levels and the first is the “samatha” meditation which trains our mind to be calm, peaceful and stable. In the Hinayana teachings, the Buddha emphasized a lot on the practice and techniques of samatha meditation. Mahayana or Vajrayana practitioners should acquire such foundation.

Vinaya is self-discipline. In short, it is to refrain from the 10 unvirtuous acts. These 10 unvirtuous acts include all the bad karma that arise from ego-clinging. The opposite of the 10 unvirtuous acts is the 10 virtuous acts. These virtuous acts are the root of old merits. I am not going to elaborate on them here and those who are not clear of the 10 virtuous acts can refer to the sutra.

At the same time, we must understand that the human body is difficult to obtain and is very precious. This precious human body is a tool to liberation but it is very vulnerable and short-lived. In this world, there are a lot of dangers which can easily destroy such bodies. We do not know at all of our karmic force and how long we are going to live.

The reason for rebirth in samsara is ego-clinging.

All emotions arising from ego-clinging will not be virtuous and with such self-centred ego, there is no way to perform virtues. All the karmic activities will not be virtuous and each of these bad karmic causes will lead to rebirth in lower realms for ten thousands of times. If you can contemplate on this fact, then you will be able to realize how precious the human body is. In the innumerable times of rebirths, the chance of being reborn in the human realm is one to ten millions. Therefore, now that you possess the precious human body, please do not waste it. You must make use of this precious human body to practice. Unless you are already enlightened or else there is no way to be completely liberated.

The above is the first requirement of the basic practice. Next, to be a Vajrayana practitioner the second requirement is to be equipped with great compassion. That is to say, in order to practice Vajrayana, one must be a Bodhisattve. Bodhisattva means a person with bodhicitta and compassion.

Bodhicitta is the seed for Buddhahood and a Bodhisattva must have Bodhicitta and Compassion towards all sentient beings, without the slightest selfishness.

Once you have generated bodhicitta, any merits performed will be transformed limitlessly and can lead to liberation and Buddhahood. Contrary to this, if you do not generate bodhicitta, all merits performed will be limited. Only merits done with bodhicitta can guarantee enlightenment or Buddhahood.

Besides practicing the Bodhisattva path, Vajrayana practitioners also use certain special skillful means in their practice, such as visualization of deites, etc.

In the Vajrayana tradition, the Kalacakra is said to be the highest tantric practice. Kalacakra has a profound meaning and the characteristics of the Kalacakra deity is also very special. It has many faces, many hands and many legs and these represent many meanings of the practice. Another example is the four arm Chenrezig with its white body which symbolizes purity and compassion, lotus flower and crystal rosary held in the hands symbolize compassion and wisdom, and the ornaments worn on the body represent the various qualities of realization.

The deity or yidam can manifest in the form of Sambhogakaya or Nirmanakaya. These manifestations stem from the primordial awareness, that is Dharmakaya. For example whether Chenrezig is perceived as manifestation in the form of a Sambhogakaya or Nirmanakaya depends on the level of practice and capacity of the practitioner.

When you are doing the yidam practice, do not think that you are inviting the deity to you. For example in the practice of Chenrezig, it is not really that Chenrezig will appear in front of you. Certain people think that yidam practice is to invite the deity to come forth or to enter their bodies. These are wrong views. Further, to clear ego-clinging, we must focus our attention on another thing beside the 3 posions, ie. Visualizing a seed syllable. For instance the syllable “HRIH” which contains the blessing of the samadhi of Chenrezig which can transform into the image of Chenrezig. Now with our ordinary bodies we visualize this seed syllable and through this seed syllable, we transform into Chenrezig. This will clear our thoughts and habitual tendencies. From this we will know that yidam practice has a lot of benefits.

– Firstly, it contains samatha meditation because you have to do a lot of visualizations.

– Secondly, yidam practice can clear bad karma and habitual tendencies

– Thirdly we can attain the Dharmakaya or Sambho-gakaya state.

The heart mantra of Chenrezig
Om Ma Ni Pad Me Hung
arises from the samadhi of Chenrezig and by reciting this mantra can help us to increase our concentration and eliminate bad karma of speech. Also, visualization of the deity is not in solid form. Its nature is emptiness, Dharmakaya and its manifestation is the Nirmanakaya.

In the completion stage of yidam practice, we have to visualize Chenrezig dissolving into light and enter into the nature of our mind. At this moment, the power of our meditation dissolves into the natural state of mind. In the sutra, this is called Prajna Paramita.

The visualization of the seed syllable “HRIH” is to clear our habitual tendencies.

Usually, when beings are reborn into human realm, the consciousness will first cling to a body and then enter the womb. Of course with the present technology it is not able to detect the conception of consciousness in the womb. What we can see is only the gradual process of growing. The conception of consciousness is caused by greed and attachment and these are very hard to get rid of. It needs the natural transformation of the mind. Therefore, we visualize our mind and dissolves into “HIRI”, which will transform the bodies of sentient beings into the bodies of Chenrezig.

The concept of yidam dissolving into light entering emptiness can change the habitual tendency of death. Usually when sentient beings die, they must enter the bardo stage. By this practice and visualization, it can clear the tendency and enter the state of Dharmakaya.

These are the practices of Vajrayana but most importantly, they require meditation as the basic. The methods of meditation are mostly found in esoteric sutras. If you are practicing Vajrayana and lack of this basic, whatever you practice will go wrong. You will be unable to visualize the empty state of a yidam and you will visualize the yidam’s body as a solid form. When you recite the mantra, you will neglect its essence. Therefore, without the basic of esoteric teachings, all practices serve no purpose.

To be a practitioner of Vajrayana, we need to have a thorough understanding of its practice and also the complete bodhisattva vows. Vajrayana should not be taught openly to people who have not taken the bodhisattva vows as it is the teachings of the bodhisattvas. Therefore, only bodhisattvas are eligible to pracitice. However, the practice if Chenrezig consists of exceptionally great compassion and can be taught openly.