d12-2

Đức Khentrul Gyangkhang Rinpoche

Kết quả hình ảnh cho Khentul Gyangkhang Rinpoche

Ảnh: Gyangkhang Rinpoche thứ 4

Đức Gyangkhang Rinpoche đời thứ nhất. 

Đức Gyangkhang Rinpoche đời thứ nhất tên là Wong Chug, được sinh ra tại Gangrig, Tây Tạng, xứ sở linh thiêng của Đạo sư Guru Rinpoche. Ngài là anh trai của Đức Karma Tashi Rinpoche. Đức Karma Tashi Rinpoche là trưởng Dòng truyền thừa Palyul đời thứ 4 và Đức Karma Kuchen Rinpoche đời thứ nhất, một trong hai đệ tử chân truyền của Đức Drubwang Pema Norbu Rinpoche đầu tiên. Sự tiên tri trong nhiều kho tàng Kinh điển và Mật điển đã tiết lộ rằng Ngài chính là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhờ những giáo lý vô cùng quý giá của Ngài, vô lượng chúng sinh đã đạt được giải thoát.

Đức Gyangkhang Rinpoche đời thứ hai

Đức Gyangkhang Rinpoche đời thứ hai tên là Rigzin Jigme Longdrol, với ý nghĩa “The Fearless Awareness Holder who is liberated in the Vast Expanse”. Ngài đã thọ nhận các giáo lý từ các vị thầy lỗi lạc của mình như Karma Nyingjed Wangpo, Karma Jigme, Jigme Gyalwai Nyugu (Patrul Rinpoche’s Master), và Jigme Tsewang Chogdrub.

Ngài đã nghiên cứu và lắng nghe Tam Tạng kinh điển (Kinh, Luật và Luận). Ngài cũng đã thọ nhận các giáo lý Hiển giáo và Mật giáo và các giáo lý Kama (Giáo lý trao truyền) và Terma (Kho tàng cất dấu). Vào những năm tháng đầu đời, Ngài đã có những đóng góp to lớn trong việc truyền bá những giáo lý thâm sâu của Dòng truyền thừa Palyul. Những năm tháng cuối đời Ngài đã ẩn tu trong hang động linh thiêng nơi Guru Rinpoche thực hành pháp tu phẫn nộ. Trong thời gian thực hành tu tập, Ngài đã ban giáo lý Đại Viên Mãn (Dzogchen) cho hàng nghìn đệ tử và xây dựng rất nhiều Bảo tháp và ảnh tượng các vị Phật. Hơn nữa, Ngài đã hoàn thành các giai đoạn phát triển và giai đoạn thành tựu của thiền và phổ độ vô số chúng sinh hữu hình và vô hình. Vì thế, Ngài được coi là một bậc Thầy vĩ đại, bậc nắm giữ giáo lý và nhận được sùng kính rộng rãi.

Đức Gyangkhang Rinpoche đời thứ 3

Đức Gyangkhang Rinpoche đời thứ 3 tên là Pedma Kenzang Tenzin. Khi còn nhỏ, Ngài thường có linh kiến về Quán Thế Âm Bồ Tát (Chenrezig), một cách rõ ràng như là đang nói chuyện với một người thường. Đức Khenpo Baden Chisong Rinpoche, một trong những Đạo sư của dòng tộc Thích Ca, đã ấn chứng Ngài là hóa thân của Đức Gyangkhang Rinpoche đời thứ hai. Ngài đã tu học dưới sự dẫn dắt của rất nhiều Đạo sư vĩ đại như Đức Jamyang Khyentse Wangpo, Gyaltrul Pema Dongag Tenzin, Jamgon Kongtrul Lodro Thaye và Rigzin Dzotu Pawo Dorje. Ngài đã lắng nghe toàn bộ giáo lý Kinh điển và Mật điển của dòng truyền thừa Nyingma, và đưa vào thực hành và giảng dạy các giáo lý cho nhiều đệ tử, đóng góp vào việc truyền bá Phật Pháp.

Gyangkhang Rinpoche thứ 4

Đức Gyangkhang Rinpoche thứ 4 sinh ra ở Ấn Độ. Đã được Đức H.H. Penor Rinpoche, H.H. Dudjom Rinpoche và H.H. Dilgo Khyentse Rinpoche xác nhận là hóa thân chuyển thế của Đức Gyangkhang Rinpoche thứ ba.

Khi lên 4 tuổi, Đức Penor Rinpoche đã mời Ngài đến ở tại Tu viện Namdroling và sau đó đã chăm sóc Ngài như đứa con yêu thương của mình. Khi 15 tuổi Ngài đã thọ nhận các giáo lý Mật điển bí truyền, đặt nền tảng cho những thực hành tu tập cao hơn. Ngài đã vào tu viện Ngagyur Nyingma(Shedra), một chi nhánh của Tu viện Namdroling nơi đây Ngài đã nghiên cứu triết lý Phật giáo tổng quát cũng như các giáo lý chuyên sâu của Dòng truyền thừa Nyingma.

Khi Ngài học năm thứ 5 trong chương trình học Phật học, Đức Gyangkhang Rinpoche đã thể hiện kiến thức Kinh điển của mình bằng một bài diễn văn dài về Sangwa Nyingpo (Kinh Magical Net và Giáo lý Mahayoga) trước Đức Đạt Lai Lạt Mat thứ 14 và 30 nghìn tăng sĩ đến từ tất cả truyền thống tôn giáo Tây Tạng. Ngài đã tranh biện về chủ đề này và dành chiến thắng. Đức Dalai Lama 14 đã khen ngợi trí tuệ của Ngài trước tất cả tăng sĩ và trao tặng Ngài khăn Kata (một chiếc khăn truyền thống của tây Tạng), động viên Ngài giữ gìn, truyền bá Giáo lý của Đức Phật vì lợi lạc của tất cả chúng sinh.

Ngài đã thọ nhận các quán đảnh, khẩu truyền và giáo huấn về toàn bộ giáo lý Kinh điển và Mật điển thâm sâu của dòng truyền thừa Nyingma từ Đức Dilgo Khyentse Rinpoche, Dodrubchen Rinpoche, Jadrel Rinpoche, Khenpo Jigme Phuntsok Rinpoche, và Nyoshul Khen Rinpoche. Đặc biệt Ngài đã thọ nhận giáo lý dòng truyền thừa Palyul bao gồm giáo lý Namchö từ Đức Penor Rinpoche. Ngài không chỉ thọ nhận các giáo lý cho giai đoạn sơ khởi (Ngondro), Tsalung và Đại Viên Mãn (Dzogchen) mà còn đưa vào thực hành miên mật. Ngài cũng được các Khenpo và các vị Thầy vĩ đại thời bấy giờ chỉ dạy các giáo lý Phật giáo về Kinh điển và Mật điển.

Vào năm 1994, dưới gốc cây Bồ Đề, Đức Gyangkhang Rinpoche đã thọ nhận những giới nguyện sắc phong từ Đức Penor Rinpoche. Vào thời điểm đó, Ngài đã được gọi là Thupten Mawai Nyima Jigme Singye Chogle Nampar Gyalwai De. Năm 1995, Ngài đã hoàn thành khóa học 9 năm trong Tu viện. Với sự học hỏi và hiểu biết của Ngài, Đức Penor Rinpoche đã ban cho Ngài danh hiệu “Tulku Khenpo” và công nhận Ngài là vị Thầy giảng dạy giáo Pháp, đưa chúng sinh đến con đường giác ngộ.

Trước khi được sắc phong với danh hiệu Khenpo, Ngài đã ban rất nhiều giáo lý trong những dịp ở Tu viện Namdroling, Mỹ và các quốc gia châu Á như Hồng Kông, Đài Loan và một số quốc gia khác. Giáo lý Ngài ban ra gồm có các giáo lý Phật giáo về Bồ Đề Tâm, Thiền Định và Triết học. Ngài cũng ban các quán đảnh và khẩu truyền.

Đức Gyangkhang Rinpoche đã nhận ra ý nghĩa các giáo lý Đức Phật qua Kinh điển và Mật điển. Vào một số dịp có nhân duyên Ngài đã ban truyền giáo lý và những chỉ dẫn và đưa ra những lời khuyên ở một số trung tâm Pháp trên thế giới. Hiện tại, Ngài đang giảng dạy tại Tu viện Ngagyur Nyingma và giúp Đức Penor Rinpoche gánh vác rất nhiều trọng trách của các tu viện.

Việt dịch: Nhóm Viet Rigpa Lotsawas

Hiệu đính: Giác Nhiên

Nguồn: Palyul.org

Mọi sai sót đều do người dịch và người hiệu đính. Có chút phước đức nhỏ nhoi nào xin hồi hướng cho những ai có duyên với Đức Gyangkhang Rinpoche đều được Ngài dẫn dắt sớm liễu thoát sinh tử và cầu mong nhờ công đức này Ngài sớm quang lâm đến Việt Nam.