tare-lhamo-namtrul-rinpoche2-2

Đức Khandro Tāre Lhamo

Khandro Tāre Lhamo sinh năm 1938, năm con hổ đất tại thung lũng Yumolung thuộc vùng đất du mục Golok. Thân phụ của Khandro Tāre Lhamo là Bậc Khai Mật Tạng Vương lừng danh Tertonor của dòng họ Apang, Đức Apang Terchen Pawo Choying Dorje (1895–194), tức Orgyen Trinle Lingpa. Thân mẫu của Bà, Đức Damtsik Drolma là con gái của một vị thủ lĩnh trong vùng và được công nhận là một hóa thân về khẩu của Đức Bà Yeshe Tsogyal.

Image result for Khandro Tāre Lhamo

Đức Khandro Tāre Lhamo

Có rất nhiều lời tiên tri vềsự ra đời của Đức Khandro Tāre Lhamo bởi những bậc lỗi lạc như Đức Pháp Vương Dudjom Rinpoche (1904-1987). Theo lời tiên tri của các Ngài, ở độ tuổi còn nhỏ Đức Khandro Tāre Lhamo đã được công nhận là hóa thân của hai bậc siêu phàm trong quá khứ, vị nam nhân là Đức Tra Gelong Tsultrim Lodro (1866-1937) và vị nữ nhân là Đức Sera Khandro (1892-1940), còn được gọi là Uza Khandro Dewe Dorje. Sự công nhận hóa thân thứ hai có vẻ hơi bất thường, bởi vì đến khi Đức Khandro Tāre Lhamo được 2 tuổi thì Đức Sera Khandro vẫn chưa viên tịch. Không có sổ sách ghi chép lại việc Đức Khandro Tāre Lhamo thọ nhận sự trao truyền các giáo lý từ hai vị hóa thân, cũng như không có buổi lễ tấn phong chính thức là hóa thân của một trong hai vị. Khi còn nhỏ, Khandro Tāre Lhamo đã thọ nhận một số vật dụng của Đức Tra Gelong Tsultrim Lodro và được mời đến tu viện của Ngài để được đào tạo thành một nữ tu sĩ. Tuy nhiên, Khandro Tāre Lhamo đã từ chối lời mời và quyết định vẫn sống tại gia cùng gia đình. Cũng giống như thân mẫu của Bà, Khandro Tāre Lhamo được công nhận là một hóa thân của Đức Bà Yeshe Tsogyal.

Suốt thời niên thiếu, Khandro Tāre Lhamo tu học, nghiên cứu kĩ lưỡng cùng thân phụ là Đức Terchen Apang, thậm chí đã cùng Ngài phát lộ một kho tàng giáo lý (Terma) khi còn nhỏ. Bà đã thọ nhận các trao truyền Nyingtik Yabzhi và toàn bộ các bản văn của những phát lộ kho tàng giáo lý từ cha mình trước khi Ngài viên tịch năm 1945, năm đó Bà chỉ mới chín tuổi. Phù hợp với pháp thực hành của truyền  thống Nyingma thông thường trao truyền giáo lý tới dòng họ, Khandro Tāre Lhamo cùng với các anh em trai trở thành các bậc hộ trì dòng truyền thừa của thân phụ mình. Các anh em trai của Bà cũng được công nhận là các vị Lama tái sinh, Đức Gyurme Dorje (b.1928), Đức Wangchen Nyima (b.1931), và Đức Tubten Chokyi Nyima (b.1939). Đức Wangchen Nyima đã kế vị cha làm người đứng đầu Tu viện Tsimda Gompa mà Đức Apang Terchen đã thành lập năm 1925 tại Markhok tỉnh Padma thuộc vùng Golok.

Khi ngấp nghé tuổi trưởng thành, Khandro Tāre Lhamo đã cùng với thân mẫu Damtsik drolma du hành tới các thánh địa ở Golok và thọ nhận các giáo lý từ các vị Lama xuất sắc trong thời đại của Bà. Các vị Thầy chính của Bà là Đức Dodrubchen, Rigdzin Jalu Dorje đời thứ 4 (1927-1961) và Đức Dzongter Kunzang Nyima (1904-1958), cháu trai và là bậc hóa thân về khẩu của Terton lừng danh, Đức Dudjom Lingpa (1835-1904). Bà đã thọ nhận các giáo huấn khẩu truyền Nyingtik Yabzhi từ Đức Rigdzin Jalu Dorje. Từ Đức Dzongter Kunzang Nyima, Khandro Tāre Lhamo đã thọ nhận quán đảnh, sự cho phép thực hành, giáo huấn của toàn bộ các bản văn của kho tàng giáo lý, và cũng như vậy từ Đức Dudjom Lingpa, và Ngài đã giao phó Khandro Tāre Lhamo trở thành người cất giữ kho tàng giáo lý (chos bdag) Yeshe Tsogyal. Theo như tiểu sử, từ khi còn nhỏ Khandro Tāre Lhamo đã bắt đầu phát lộ các kho tàng giáo lý dưới dạng các bình tro hài cốt và các cuộn giấy màu vàng, và Ngài đã giao phó nhiệm vụ cho Khandro Tāre Lhamo cất giữ các kho tàng giáo lý thực hành Yeshe Tsogyal được phát lồ bởi Ngài.

Vào độ tuổi 20 Khandro Tāre Lhamo tham gia vào trại của Đức Dzongter Kunzang Nyima tại Rizab và trở thành phối ngẫu của con trai Ngài là Đức Mingyur Dorje (1934-1959), tức Pema Osel Nyingpo. Trong thời gian ngắn gắn bó cùng nhau, một cậu con trai đã chào đời, danh hiệu là Wangchuk Dorje, còn gọi là Tulku Ngaro. Suốt cuộc cải cách xã hội của Golok vào cuối những năm 1950, dưới sự cai trị của Cộng sản Trung Hoa, Đức Tulku Milo và  ba anh em trai của Đức Khandro Tāre Lhamo đã bị bắt giam vào tù, cùng với những bậc kiệt xuất khác, cuối cùng Ngài đã thị tịch tại đây. Có vẻ vì là nữ nhân và các vị Lama nhỏ tuổi lúc đó mới chỉ ở tuổi thiếu niên nên Khandro Tāre Lhamo đã được phóng thích. Vào thời kỳ đầu của cuộc Cách Mạng Văn Hóa (1966–76), con trai của Khandro Tāre Lhamo đã qua đời vì bệnh tật và sau đó thân mẫu của Khandro Tāre Lhamo vì tuổi già sức yếu cũng ra đi để lại cho Bà một sự mất mát lớn lao.

Image result for Khandro Tāre Lhamo

Đức Namtrul Rinpoche và Khandro Tāre Lhamo

Vào năm 1987, Khandro Tāre Lhamo đã thọ nhận giáo lý từ Đức Namtrul Rinpoche (1944-2011), một vị Lama kém Bà 6 tuổi sống ở vùng biên giới Serta của tỉnh Tứ Xuyên. Sau hơn một năm trao đổi các bản văn xuôi, Bà đã từ giã quê hương Padma ở tỉnh Thanh Hải tới gặp Đức Namtrul Rinpoche ở Serta, tại đây hai vị đã cùng sống cho đến ngày Bà thị tịch là vào năm 2002. Họ đã cùng nhau tái xây dựng Tu viện Nyenlung tại quê hương, cùng với Đức Rigdzin Nyima, vị Lama đã cư ngụ tại miền đất này như một ẩn sĩ và rất gần gũi với hai vị. Mặc dù Khandro Tare Lhamo từ bỏ quyền kế nhiệm của mình trở thành người đứng đầu Tu viện Tsimda bằng cách rời khỏi tỉnh Padma, Khandro Tāre Lhamo và Đức Namtrul Rinpoche vẫn tiếp tục phụng sự với vai trò là những vị giáo thọ, và Khandro Tāre Lhamo đóng một vai trò quan trọng trong việc tái xây dựng Tu viện.

Kết quả hình ảnh cho SANGYUM RIGDZIN WANGMO

Đức Namtrul Rinpoche và Đức Khenpo Jigme Puntsok và Khandro Tāre Lhamo

Năm 1980, Đức Khenpo Jigme Puntsok (1933-2004) ban cho Khandro Tāre Lhamo và Đức Namtrul Rinpoche trao truyền các bản văn giáo lý của Terchen Apang, mà Khandro Tāre Lhamo đã thọ nhận trực tiếp từ thân phụ khi còn nhỏ, và khuyến khích họ truyền bá nó một cách rộng rãi. Sau đó vào năm 1986, Ngài đã ủy thác cho hai vị trở thành các Terton và ban truyền các bản văn của kho tàng giáo lý của Đức Lerab Lingpa (1856-1926), vị hóa thân đời trước của Ngài. Năm 1987, Khandro Tāre Lhamo và Đức Namtrul Rinpoche đã cùng đoàn tùy tùng của Ngài khoảng 10.000 người thực hiện chuyến hành hương lịch sử tới Ngũ Đài Sơn, thánh địa của Bồ tát Văn Thù ở tỉnh Sơn Tây – Trung Quốc, tại đây Khandro Tāre Lhamo và Đức Namtrul Rinpoche đã phát lộ một thực hành Sarasvati.

Image result for Dola Chökyi Nyima Rinpoche

Đức Dola Chökyi Nyima Rinpoche

Vào năm 1990, Đức Dola Tulku Jigme Chökyi Nyima Rinpoche đã ban trao truyền các bản văn kho tàng giáo lý của thân phụ Ngài, Đức Dudjom Rinpoche (1904-1987) và giao phó cho Đức Namtrul Rinpoche và Khandro Tāre Lhamo phổ biến các trao truyền. Chẳng bao lâu sau, Khandro Tāre Lhamo đã thu hút sự chú ý trên khắp thế giới về việc công nhận con trai của Đức Dola Chokyi Nyima là một trong hai hóa thân của Đức Dudjom Rinpoche .

Image result for Khandro Tāre Lhamo

Đức Namtrul Rinpoche và Đức Dudjom Yangsi Rinpoche và Khandro Tāre Lhamo

Trong suốt thập niên 1980 và thập niên 90, Khandro Tare Lhamo và Đức Namtrul Rinpoche đã cùng phát lộ các kho tàng quý báu và giảng dạy rộng rãi khắp vùng Golok và xa hơn nữa. Suốt quá trình hoạt động giảng dạy giáo Pháp, hai vị đã tổ chức và trao truyền tuyển tập kho tàng giáo lý cốt tủy: Tuyển tập các bản văn kho tàng giáo lý của họ thành mười hai quyển, của thân phụ Bà, Đức Terchen Apang thành 16 quyển, và của Đức Dudjom Rinpoche. Hai vị  đã tổ chức các kỳ kết tập Pháp (Chos tshogs) hàng năm tại Nyenlung vào mỗi mùa hè, kể từ những năm 1990 thu hút hơn một nghìn phật tử tham dự. Đồng thời các Ngài là người quản lý một số tu viện khác ở Golok và các khu vực lân cận, giúp gây quỹ cho các dự án tái xây dựng, ủng hộ tịnh tài cho các nghi lễ, và thiết lập các thực hành nghi quỹ, trong những chuyến viếng thăm thường xuyên để giảng dạy giáo Pháp. Hai vị cũng dành sự quan tâm mạnh mẽ cũng như  sự tôn vinh và đẩy mạnh truyền bá sử thi Gesar.

Vào cuối năm 2000, Khandro Tare Lhamo ngã bệnh và năm sau, Khandro Tare Lhamo được chẩn đoán mắc một căn bệnh, mà có thể là ung thư thực quản. Những biện pháp thực tế và mang tính nghi lễ khác nhau được thực hiện nhằm nỗ lực chữa trị cho Khandro Tare Lhamo, cả thời gian khi ở bệnh viện tại Barkham và Thành Đô. Bà đã thị tịch vào ngày 26 tháng 3 năm 2002 tại Chendgu, và nhục thân của Bà đã được đưa trở về Nyenlung ngay sau đó để thực hiện các nghi lễ tâm linh phù hợp. Đức Namtrul Rinpoche tiếp tục phụng sự và phát triển cộng đồng tôn giáo của họ trong gần một thập kỷ cho đến khi Ngài thị tịch vào ngày 07 Tháng Mười Một 2011.

Dòng truyền thừa Pháp của Khandro Tāre Lhamo và Đức Namtrul Rinpoche đã được trao truyền tới con trai là Đức Tulku Laksam, và bây giờ là người đứng đầu của Tu viện Nyenlung và vị hộ trì truyền thừa đối với các giáo lý kho tàng quý báu của họ và của Đức Terchen Apang. Cùng với sự được công nhận là hóa thân của Đức Zhuchen Kunzang Nyima. Đức Tulku Laksam được xem là hóa thân của Đức Tulku Ngaro, con trai ruột của Khandro Tāre Lhamo, Ngài qua đời khi còn nhỏ. Ngày nay, các hộp đựng xá lợi của Đức Khandro Tāre Lhamo và Đức Namtrul Rinpoche nằm cạnh nhau trong khuôn viên dòng họ tại Nyenlung.

Việt ngữ: Tara Devi (Nhóm Viet Rigpa Lotsawas)

Hiệu đính: Giác Nhiên

Nguồn: treasuryoflives.org

Mọi sai sót đều do người dịch và người hiệu đính. Có chút phước đức nhỏ nhoi nào xin hồi hướng cho những ai có duyên với  Khandro Tare Lhamo đều được Ngài dẫn dắt liễu thoát sinh tử và cầu mong nhờ công đức này cầu mong những hóa thân của Khandro sớm quang lâm đến Việt Nam.